Trang nhất
  Xã Luận
  Đọc Báo Trong Nước
  Truyện Ngắn
  Kinh Tế
  Âm vang sử Việt
  Tin Thể Thao
  Y Học
  Tâm lý - Xã hội
  Công Nghệ
  Ẩm Thực

    Diễn Đàn Biển Đông
Bắc Kinh yêu cầu Manila ngừng khiêu khích ở Biển Đông
    Hình Ảnh Quê Nhà - Video Clip
Nồng ấm Tết cổ truyền dân tộc Khmer Chôl Chnăm Thmây
    Tin Thế Giới
Ấn Độ, Israel tiến hành diễn tập an ninh chung
    Tin Việt Nam
Lãnh đạo Việt Nam gửi điện thăm hỏi Campuchia sau vụ nổ kho đạn
    Tin Cộng Đồng
Nắng nóng kỷ lục tại nhiều bang của Ấn Độ
    Tin Hoa Kỳ
Mật vụ Mỹ lên kế hoạch bảo vệ trong trường hợp ông Trump bị giam giữ
    Văn Nghệ
Huế
    Điện Ảnh
Lý Hải trở thành đạo diễn nghìn tỷ đồng
    Âm Nhạc
Danh tính nữ ca sĩ Việt may mắn gặp Rosé (Blackpink), lại còn chiêu đãi fan ảnh cam thường
    Văn Học
Bắt học sinh đi học ngày nghỉ lễ Giỗ tổ Hùng Vương, hiệu trưởng bị xem xét kỷ luật

Thông Tin Tòa Soạn

Tổng biên tập:
Tiến Sĩ
Nguyễn Hữu Hoạt
Phụ Tá Tổng Biên Tập
Tiến Sĩ
Nhật Khánh Thy Nguyễn
Tổng Thư ký:
Quách Y Lành




   Hình Ảnh Quê Nhà - Video Clip
ĐỖ DUY NGỌC hồi ký (phần 2)
Với những thành tích và tính cách của Nhân, Nhân mau chóng trở thành lãnh tụ của các phong trào sinh viên, Lúc đầu là anh cả của các môn thể thao, dần dà, Nhân lại làm luôn lãnh tụ chính trị với nhiều tham vọng. Thời điểm bấy giờ, cuộc chiến tranh Việt Nam đã đến cao điểm.


 


 Mỹ liên tục ném bom miền Bắc, cuộc chiến đấu ở miền Nam càng ngày càng nhiều máu lửa. Sinh viên Việt Nam đi du học hàng ngày nhìn thấy những đổ nát, những tàn phá, máu xương rơi của chiến tranh, lại thêm chính quyền miền Bắc và Chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam tuyên truyền ở Âu châu rất mạnh, nên đa số đều tham gia chống chiến tranh, kêu gọi 

hòa bình với một ý thức chính trị rất mơ hồ. Lực lượng này rất mạnh và rất đông đảo. Và tham gia phong trào chống Mỹ trở thành một cái mốt của người trí thức. 


Nhân thì ngược lại, hắn làm lãnh tụ một nhóm sinh viên ủng hộ chính quyền Việt Nam Cộng hòa, chuyên phá đám các cuộc biểu tình và tuần hành của nhóm sinh viên kia. Đụng độ giữa hai phái xảy ra như cơm bữa.


Đúng thời điểm này thì chúng tôi nhận hung tin từ Việt Nam. Mẹ tôi và mẹ Nhân trong một chuyến hành hương về La Vang, Quảng Trị, trên đường về thì xe bị lật vì trúng mìn. Mẹ Nhân tan xác tại chỗ, mẹ tôi được đưa vào bệnh viện Trung ương Huế, nhưng rồi cũng từ trần ở đó. Tôi điện thoại cho Nhân, khóc nức nở trong điện thoại, Nhân chỉ ậm ừ khuyên lơn tôi. Tôi đòi bỏ về Việt Nam ngay, nhưng Nhân khuyên nhủ, động viên tôi ở lại tiếp tục học và phải cố học tốt hơn nữa, đó cũng 

là một cách để khỏi làm buồn lòng mẹ. Tôi nghe lời Nhân, nhưng lòng thì tan nát, dạ rối bời, chẳng thiết ăn uống gần mấy tuần liền. Riêng Nhân từ đó càng lao vào những cuộc đấu tranh để ủng hộ phái đoàn Việt Nam Cộng Hòa đang ở Paris để hội đàm tìm cách giải quyết chiến tranh. Nhân mơ ước ngày trở về sẽ trở thành một công chức cốt cán của chính quyền miền Nam, với những đổi thay và cương lĩnh mới. 


Hiệp định Paris được ký  kết, Nhân cay cú vì bảo rằng chính quyền miền Nam đã bị Mỹ lừa. Nhân càng hoạt động mạnh hơn, quyết liệt hơn. Và trong tâm trạng đó, Nhân đã phạm một sai lầm oan nghiệt, chấm dứt mọi ước mơ và hoài bão. Cắt đứt tương lai đang rộng cửa.


Trong khu đại học xá, Nhân  được bố trí ở cùng chung phòng với Thành, cũng là một du học sinh học trường Bách Khoa Paris, học sau Nhân một khóa. Thành là con trai của Chủ tịch Tối cao Pháp viện của chính quyền miền Nam, nhưng Thành lại là lãnh tụ của phong trào thiên tả ủng hộ Cộng sản. Thành cũng là một thành viên rất cực đoan của lực lượng này. 




Từ lâu, cả hai đã có  nhiều lần tranh cãi nhau dữ dội vì những quan điểm xung khắc nhau về cuộc chiến đang xảy ra. Khi hiệp định Paris vừa có hiệu lực thi hành, Nhân trong cơn bực tức đã nổ ra cuộc đấu khẩu với Thành và trong lúc không kềm lòng được đã bay đến phóng chân đá vào đầu Thành ngay trong phòng của hai người. Thành gãy cổ chết ngay lập tức, máu trào khóe miệng. Nhân bị bắt ngay. Báo chí đưa tin hàng giờ. Tôi ở Montpellier đọc báo thấy đăng hình của Nhân, nhưng lần này không phải là khuôn mặt tươi cười, hớn hở như xưa mà là tấm hình Nhân cúi đầu đi giữa đám cảnh sát, hai tay bị còng, những sợi tóc xoăn trước trán rũ xuống khuôn mặt nhợt nhạt không còn chút sinh khí. Tôi chợt nhớ nhận định của chú Lý Hạnh ngày nào và bỗng tin vào số mệnh. 


Tôi bay ngay về Paris, nhưng không được gặp trực tiếp Nhân. Hắn đang bị cách ly để điều tra. Sau một thời gian, Nhân bị trục xuất và dẫn độ về Sài Gòn với cái án giết người. Tôi lại chỉ gặp được Nhân qua hình trên báo đăng hình Nhân ở chân phi cơ lúc bị dẫn độ, tay Nhân vẫn bị còng và Nhân vẫn lại lọt thỏm giữa đám cảnh sát với khuôn mặt hớt hãi.


Tôi nhận được thư Nhân lúc trở về Montpellier, Trong thư Nhân dặn dò tôi là không được tin cho ai ở nhà biết việc này, đồng thời Nhân cũng nhờ tôi là khi nào nhận được thư Nhân với hai phong bì, tôi phải bỏ bì thư ngoài và gởi lại cái thư bên trong về Việt Nam cho gia đình Nhân, nếu nhận được thư của ba Nhân, tôi lại gởi về Sài Gòn làm như là Nhân vẫn đang ở Pháp vậy. Nhân khuyên tôi cố gắng học cho xong và xin lỗi tôi, tôi chẳng biết Nhân xin lỗi tôi vì lí do gì. Mỗi lần đi gởi thơ về cho ba Nhân, tôi cảm thấy mình đang làm một chuyện tội lỗi tày đình vì đang đánh lừa ba Nhân, người đang hi vọng về đứa con thiên tài của mình. Lần nào đi gởi thư, tôi cũng khóc. Không biết bao giờ tôi mới bỏ được kiểu thường hay rơi nước mắt như thế này.  




Năm 1972 tôi đang học năm thứ hai Y khoa, tôi bỗng chán nản cùng cực và ý thức một cách rõ ràng là nghề y không phù hợp với tôi. Tôi sợ thấy máu chảy. Tôi sợ những khuôn mặt nhăn nhó, đau đớn vì bệnh tật của bệnh nhân. Tôi cũng biết rất rõ mình không đủ phẩm chất để làm người thầy thuốc. Tôi quá nhạy cảm trước mọi sự. Tôi chỉ mong ước mình trở thành họa sĩ, suốt ngày lang thang vẽ vời, sáng tạo, đùa giỡn với sắc màu, không phải đối diện với những nỗi đau bệnh tật, máu me, chết  choc của con người như nghề bác sĩ. Nếu cứ tiếp tục cố nhồi nhét những  kiến thức y khoa như thế này, chắc chắn tôi sẽ điên mất. Trước đây tôi  chọn học y vì ba tôi bắt phải thế, lúc đó tôi vẫn chưa có ý thức về nghề, về tương lai. Nhưng bây giờ, qua gần ba năm, tôi tuyệt vọng vì thấy mình đang đi lần vào một hố thẳm và sợ hãi khi nghĩ đến việc suốt đời phải gắn bó công việc khủng khiếp này. Và rồi tôi đi đến quyết định cuối cùng. Đây là quyết định đầu tiên trong đời do tôi tự quyết. 




Không biết tương lai rồi sẽ ra sao, nhưng tôi có chút hài long vì đã thoát ra được bế tắc. Ít ra con chim rời long son cũng đã tự định hướng cho đời mình. Tôi bỏ trường Y, thi vào L’Ecole supérieure des Beaux – Arts de Montpellier Aggomération, tức trường Trang trí Mỹ thuật Montpellier. Học trường này có nghĩa là tôi sẽ bị mất học bổng ở trường cũ, do vậy kể từ đó cuộc sống của tôi bấp bênh, no đói thất thường, làm nhiều nghề để kiếm cơm và để được học những thứ mình ưa thích. Nhưng tôi vốn vụng về và hậu đậu, chẳng làm tốt được chuyện gì, đi đưa báo thì đưa lộn địa chỉ, làm bồi rửa chén thì chuyên làm vỡ bát dĩa, đi giao sữa thì đổ sữa lai láng trước cửa nhà của khách. Bởi từ bé cho đến lớn, tôi chỉ việc học, ba mẹ tôi không cho tôi làm gì ngoài chuyện phải học thật giỏi. Lối giáo dục đó làm cho tôi vấp phải thất bại trong bước đầu trong cuộc đời.  




Trong các thầy giáo dạy ở  trường Mỹ thuật, có giáo sư Alain Bourdon dạy rất giỏi, thầy được gọi là họa sư. Thầy rất thương tôi và biết rất rõ tình trạng của tôi, nên thường tìm cách giúp đỡ. Lúc thì kẹp ít tiền trong sách của tôi, khi thì giỏ thức ăn. Cuối tuần, Thầy thường đón tôi về căn nhà ở ngoại ô của Thầy. Ở đó, tôi được ăn no nê và được Thầy dạy thêm những kiến thức vô cùng quý báu. Vợ Thầy đã mất cách đây bốn năm vì bệnh ung thư, Thầy ở với cô con gái duy nhất khoảng 18 tuổi tên Monique rất đẹp, khuôn mặt thánh thiện, sáng bừng như thiên thần. 

Monique thường nhờ tôi đệm piano cho cô ấy hát, Monique có một giọng hát trong trẻo và cao vút rất hợp với nhiều bài Thánh ca cũng như  những bài ca dân dã. Tôi thường đọc thơ cho nàng nghe, những bài thơ của Arthur Rimbaud, Paul Verlaine …, Guillaume Apollinaire và cả thơ Tagore. Monique rất thích bài thơ L'Adieu của Apollinaire, nhất là khi tôi ngâm bài thơ này bằng giọng Quảng Nam, mỗi lần nghe xong, nàng bật cười ngặt nghẽo, cứ giả giọng của tôi rồi cười khanh khách, nhưng đôi mắt thì ngập nước:


"J'ai cueilli ce brin de bruyère 

L'automne est morte souviens-t'en 

Nous ne nous verrons plus sur terre 

Odeur du temps Brin de bruyère 

Et souviens-toi que je t'attends " 

                       (L'Adieu – Apollinaire)


Monique rất quý tôi, tuần nào tôi không về, cô ấy gởi bánh trái cho Thầy Alain mang lên cho tôi. Biết thân phận mình, lại vẫn cái tánh nhút nhát, không tin vào mình, nên dù có rất nhiều cảm tình với nàng, tôi vẫn không dám ngỏ, cứ mặc cảm mình không xứng đáng. Chúng tôi thường đi dạo trên con đường mòn của cánh rừng sau nhà, cùng đi qua đủ bốn mùa. Mùa thu sắc đỏ, lá vàng ngập lối đi. Mùa hạ bầu trời xanh và mặt nước hồ gợn sóng lăn tăn. Mùa xuân với những cành lá biếc, hoa nở tím cả rừng và mùa đông với những cành trơ trọi, trời lạnh giá, trên cổ mỗi người quấn chiếc khăn quàng do Monique tự tay đan. Trong những buổi cùng lang thang, hái hoa, nghe tiếng chim líu lo, chúng tôi nói với nhau đủ thứ chuyện trên đời. Nhưng cũng có khi trên đường về, hai đứa cứ im lặng suốt cả con đường dài, nhưng vẫn ngập tràn một thứ hạnh phúc khó diễn tả nổi. Tình yêu đến nhẹ nhàng, trong như giọt sương, tôi không dám động mạnh, chỉ sợ nó vỡ tan. Và ánh mắt nhìn nhau, nụ cười trao nhau như những lời ước hẹn,đổi trao diễn ra trong im lặng. 

Mỗi khi đến nhà của Thầy Alain, được ngồi ăn chung với hai bố con Thầy, được nhìn khuôn mặt đẹp tựa thiên sứ của Monique, nghe tiếng hát trong veo của nàng, tôi cảm thấy cuộc đời thật tươi đẹp và mong ước  mình cứ được mãi như thế này…  




Nhưng số phận lại giáng xuống đời, khi tôi vừa xong năm thứ hai đang  kỳ nghỉ hè thì tai họa ập đến gia đình Thầy Alain. Trong chuyến đi về Paris của hè năm ấy, họ đã bị tai nạn giao thông. Thầy Alain chết ngay trên volant, Monique bị thương nặng, được chở vào bệnh viện, một tuần sau thì mất. Tôi bay về Paris ngay khi được tin và chăm sóc Monique suốt một tuần nàng thoi thóp, mê man trên giường bệnh, suốt ngày tôi  quên ăn uống, chỉ ngồi nắm trong tay bàn tay bé nhỏ lạnh giá của  Monique, chờ phép lạ. Đến hôm cuối cùng, Monique mở mắt nhìn tôi rất lâu, hai dòng nước mắt chảy dài trên má nàng, mặt tôi cũng đầm đìa nước mắt. Môi nàng mấp máy: Je t’aime… Je t’aime… và bàn tay rời khỏi tay tôi. Phép lạ đã không đến. Chúa cũng đã quay mặt đi trước nỗi đau của thiên thần. Tôi gần như không kêu lên được tiếng gọi y tá cấp cứu, cổ họng tôi đông cứng và tôi đứng chôn chân gần mấy tiếng đồng hồ trong niềm tuyệt vọng như bức tượng đá bên giường. Tôi không tin đó là sự thật. 


Suốt cuộc đời, tôi không bao giờ quên được ánh mắt và câu nói cuối cùng đó. Câu nói của Monique như vết khắc trong tim tôi, không phai. Tôi đau đớn tột cùng trước cái chết của cha con Thầy Alain, người  tôi xem như người cha thứ hai của mình. Và Monique, mối tình đầu của tôi, mối tình câm chưa dám ngỏ của tôi. Tôi có cảm tưởng mình đã bị rút hết tất cả sinh lực. Tôi mất ngủ, lang thang như kẻ điên suốt mấy tháng dài. Tôi chẳng còn thiết tha gì chuyện học hành và tương lai. Thiên  thần Monique của tôi hiện ra như ánh chớp, lóe sáng đời tôi một khoảnh khắc rồi bay về trời. Nàng như một thứ định mệnh làm thay đổi ý nghĩ  của tôi về cuộc sống. Cái chết của mẹ tôi, mẹ Nhân, của Thầy Alain, của Monique khiến tôi thấy cuộc sống này chỉ là một ảo ảnh, có đó rồi mất đó. Hiện hữu rồi tan vào hư vô. Sống chết là một ranh giới quá mỏng manh. Cuộc sống chỉ là một ánh chớp. Tôi đóng cửa suốt ngày và cứ nghĩ về lẽ tử sinh. Và rồi số phận lại đổi thay, tôi ngộ ra rằng những  tham vọng, những ước mơ, những hoài bão, những cố gắng cuối cùng rồi cũng sẽ được chấm hết bằng một cái chết do muôn ngàn bất trắc của đời sống. Thế thì ham danh vọng để làm gì, mải mê theo những ảo vọng để làm gì?


Tất cả thật ra rồi cũng chỉ là ảo ảnh.Và tôi buông tay, thả cuộc đời mình cho những con sóng của số phận. Tôi bỏ lại tất cả và trở về Việt Nam


  ********


3.


Tôi không dám về quê, cố  bám lấy Sài Gòn. Tôi tìm gặp Nhân, hai đứa thuê chung căn phòng ở khu Trương Minh Giảng. Tôi và Nhân bàn cách để tránh những người quen biết. Tôi để tóc, râu dài thậm thượt, Nhân cũng  thế. Hai đứa thường mang đôi kính đen, ban đêm thì mang kính đổi màu. 

Hàng tháng, tôi và Nhân viết thư gởi qua Pháp cho một người bạn, anh này lại bỏ phong bì ngoài, gởi tiếp về Việt Nam cho ba tôi và ba Nhân.  Và nhận những lá thư từ gia đình gởi qua chặng Đà Nẵng – Pháp – Sài Gòn. 


Chúng tôi lại tiếp tục lừa dối và loay hoay trong lừa dối tự mình bày ra.


Lúc Nhân vừa bị dẫn  độ về Sài Gòn, ông chủ tịch Tối cao Pháp viện, tức là bố của Thành, người bị Nhân giết chết bằng cú đá oan nghiệt, đang chuẩn bị ra tranh cử dân biểu quốc hội. Không muốn bị báo chí phanh phui là có con theo Cộng Sản bị giết chết nên ông này tìm mọi cách ỉm vụ đó đi. Nhân chỉ bị đưa ra tòa bí mật và kết luận là gây án ngộ sát trong tình trạng thần kinh không bình thường, nên được trả tự do sau hai tháng giam giữ. 


Được một người bạn du học Mỹ về đang làm Tổng cục trưởng, Nhân được bố trí làm việc ở Tổng cục gia cư, chuyên về xây dựng. Khi tôi về, Nhân lại giới thiệu tôi vào làm với nhiệm vụ họa viên vẽ họa đồ. Để trốn khỏi đi lính, Nhân mua cho tôi một cái giấy hoãn dịch vì lí do sức khỏe và hắn thì hoãn dịch vì gia cảnh. Cả hai đều là giấy giả. Đi làm lương cũng kha khá đủ sống, nhưng hai thằng sống như hai thằng buôn thuốc phiện lậu, lúc nào cũng lén lén lút lút, cứ sợ gặp người quen với gia đình và cũng phải trốn tránh bọn cảnh sát chìm nổi đầy mọi ngõ ngách. Cả hai trường hợp nếu bị phát giác cũng đều đưa đến kết quả bi thảm cả. Thế mà tôi cũng phiêu lưu dám ghi danh học tiếp ở Đại học Văn khoa. Vừa làm vừa học, dù ít khi có mặt ở giảng đường.  Từ đó, tôi cảm thấy mình an phận, chấp nhận số phận do mình chọn lựa. 




Nhưng hình như Nhân không nghĩ  giống tôi. Có rất nhiều khi Nhân không cười, không nói, lầm lì suốt cả tuần lễ, có lúc lại uống rượu đập bàn, đập vỡ li chén, uống say mèm và khóc tức tưởi. Những lúc như vậy, tôi  chỉ biết ngồi im vì ánh mắt của hắn lúc đó trông như ánh mắt của quỷ  dữ, như con thú bị dồn đến đường cùng. Có một điều lạ nữa là Nhân không bao giờ nhắc đến Dạ Lan lúc tỉnh táo, mặc dù tôi biết Nhân nhớ  thương nàng nhiều lắm. Nhưng cứ đến khi say, hắn khóc và réo mãi tên Dạ Lan. Khi tỉnh, nếu tôi vô tình nhắc đến tên nàng, Nhân quắc mắt lên rất dữ tợn, riết rồi tôi chả bao giờ dám nhắc đến cái tên đó nữa.  




Hàng tuần, cứ mỗi chiều thứ bảy khi đi làm về, Nhân lại mua một bó hoa lớn, vào nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, ngồi trước mộ Thành đến tối mịt mới về. Tôi hiểu tâm trạng của Nhân nên cũng chẳng có ý kiến, nhưng tôi tự nghĩ, một cú đá đã giết chết cuộc đời của hai người: cái chết tức thời của Thành và cái chết dai dẳng của Nhân. Cú đá đã làm cho cuộc đời của Nhân qua một ngã rẽ để đi tới hố sâu thăm thẳm.


Chúng tôi sống bình lặng chẳng có gì đáng kể như thế cho đến biến cố 30 tháng 4 năm 1975.


********


4.


Những tin tức chiến sự dồn dập, Tây nguyên thất thủ, Huế mất, Đà Nẵng mất. Hàng trăm ngàn người trôi dạt trên biển từ miền Trung, lớp lớp người trên những con đường đầy xác chết. Cuộc chiến đi vào những giây phút cuối cùng. Sài gòn rung lên từng phút. Hai trái bom CBU nổ trên tỉnh lỵ Long khánh. Thành phố nhốn nháo. Thành phố lo âu. Thành phố chuẩn bị cuộc hỗn loạn đang chuẩn bị ập tới. 


Tôi và Nhân vẫn bình chân như vại. Sáng sáng vẫn ngồi cà phê chờ  xe đến rước đi làm. Thiên hạ bàn tán nhiều đến chuyện ở, chuyện đi. Hai thằng không quan tâm, Cũng đúng thôi, vì chúng tôi từng ở bên đó về, đã thấm những nỗi nhục nhằn, đã chấp nhận nhát búa của số phận. Không lẽ bây giờ lại trở lại tiếp tục chui đầu vào con đường cũ. Những ngày cuối cùng của tháng tư, công sở đóng cửa, hai đứa ngồi nhìn thiên hạ xôn xao lòng dửng dưng. Nhưng đến hôm 29.4 thì bỗng nhiên cả hai thấy sợ trước những lời đồn đoán.  




Nửa đêm hai đứa vùng dậy, đem hết giấy tờ, hình ảnh liên quan đến những năm tháng du học ở Pháp ra đốt. Nhân có cả mấy thùng lớn loại này, những hình ảnh thời Nhân còn được gọi là Super Man trên đất Pháp. 

Ngọn lửa bập bùng suốt đêm. Tôi chỉ giữ lại mấy tấm hình tôi chụp chung với Thầy Alain và Monique, mấy bức tranh tôi vẽ ở trường Mỹ thuật tôi đã chọn lựa để đem về Việt Nam. Đó là những kỉ vật tôi không thể để mất được, dù tôi hiểu có thể sẽ đưa đến hậu quả không may.


Sài Gòn sau đó là một Sài Gòn khác. Những lều quán bỗng dưng mọc lên trên những con phố. Chủ quán là chị cave, cũng có thể là vợ của một anh sĩ quan nào đó, cũng có thể là một nghệ sĩ, một nhà báo không còn được sử dụng. Thiên hạ nháo nhào đổ ra đường kiếm sống, cuộc sống bị xáo trộn ghê gớm, chẳng còn phân biệt được đâu là ông, đâu là thằng của những con người cũ.  




Chúng tôi suốt ngày lê la hàng quán, đấu láo quên thời gian mà không biết rồi ngày mai sẽ ra sao. Có người rủ mở quán, có đứa kêu đi bán đủ thứ thứ tàn dư của xã hội cũ lọc lừa mấy chàng bộ đội khờ khạo, có thằng rủ đi bán thuốc Tây. Có đám rủ rê vượt biên. Có người nhỏ to tính chuyện tổ chức phản động. Chúng tôi phớt lờ tất cả. Cứ bán dần những thứ còn lại trong mớ đồ đạc sống qua ngày.  




Sống lây lất mấy tháng như  vậy thì chúng tôi bắt đầu bế tắc. Công việc không có, áo quần, giày dép, mắt kính, sách vở, túi xách, va li lần lượt lên đường. Đùng một cái, đổi tiền lần thứ nhất (2.9.1975), chúng tôi chẳng có xu nào để đổi. Bắt đầu những ngày khốn khó. Có nhiều bữa chỉ còn đủ tiền mua một lon gạo và một quả trứng. Hai thằng luộc rồi chia trứng làm bốn mảnh, tưới nhiều nước mắm, dành ăn cho hai bữa. Có ngày chỉ còn mấy miếng khoai mì mua được dọc đường…. Rồi không ai bảo ai, cả hai bắt đầu tản ra, mỗi thằng tự đi, tự kiếm ăn, tối về ngủ. 

Nhân bỗng cọc cằn, dễ nổi nóng, tối ngủ cứ đá vào tường suốt đêm… Rồi tới một ngày, chúng tôi chia tay nhau, Nhân bỏ đi mất hút…  




Tôi bắt đầu đói dữ, có  ngày chỉ được trái chuối, có hôm chỉ được củ khoai. Người tôi xanh mướt, xuống sức dữ dội, chỉ còn 39 ki lô. Tôi đành phải chấp nhận vào làm bưng bê trong quán cà phê ven đường của vợ chồng người bạn họa sĩ, kiếm cơm ăn. Nhưng cũng chỉ được mấy tháng, hai vợ chồng người bạn bị bắt vì có dính líu chính trị sao đó chẳng  biết. Tôi lại trôi như bèo. Bèo nhèo. Tôi cũng chẳng có chút tin tức gì về Nhân, không biết hắn sống ra sao. Mù tăm.  




Tôi đã đói tới ngày thứ ba, ba ngày chỉ có củ khoai lang và  li nước đường uống lậu ở quán con Sáu ốm. Người mệt lả. Thèm đủ thứ. Thấy gì cũng muốn giật bỏ vào mồm. Mệt. Người cứ như đang say sóng.Nhưng cũng cứ phải ra đường, vì ra đường mới hi vọng có miếng ăn. Đói, nhưng cũng quần áo chỉnh tề, giày vớ đầy đủ, nghiêm chỉnh ra đường như một kẻ nhàn du. Ra đường đứng lơ ngơ, đi lơ ngơ không mục đích. Và trong khi lớ ngớ như thế, tôi phát hiện phía bên đống rác ở chân cầu Trương Minh Gỉảng có chiếc xe đạp ai bỏ đó. Tôi đứng gần hai tiếng đồng hồ phía bên này  đường, không thấy ai đến lấy. Tôi chờ thêm thời gian nữa, rồi băng qua đường. Chỉ việc tỉnh queo dắt xe đi, làm như xe của mình là xong. Bán đi sống cũng được năm mười bữa. Tôi đã chạm tay vào ghi đông xe. Nhưng rồi rụt tay lại như phỏng lửa. Hình như có người nhìn tôi. 

Hình như mọi người nhìn tôi. Hình như mọi người đang cùng chỉ tay vào tôi và đồng thanh: thằng ăn cắp.. thằng ăn cắp… Trong đầu tôi cũng vang lên điệp khúc đó: thằng ăn cắp.. thằng ăn cắp… 




Tôi lại lủi vào chợ. Những món hàng bánh trái lèo tèo nhưng hấp dẫn tôi vì cơn  đói đang hành hạ. Có một chị đang bế con đi qua. Đứa bé khóc ngặt nghẽo đòi ăn quà. Chị ngồi xuống gánh chuối chiên. Những miếng chuối chiên vàng quyến rũ. Nước miếng chảy ra đầy miệng tôi. Tôi nghe có tiếng dòn rụm trong hàm răng, vị ngòn ngọt, beo béo tỏa trên đầu lưỡi. Thằng bé vẫn khóc. Người đàn bà đứng lên, đứa bé tay cầm miếng bánh, miệng vẫn khóc, người vùng vằng. Tôi chắc chắn trong đầu là thằng bé sẽ đánh rơi miếng bánh. Tôi lặng lẽ đi theo. Thằng bé làm rơi bánh thật. Tôi cúi người lẹ như sóc, lượm nhanh và tạt ngay vào con hẻm nhỏ. Miếng bánh tưởng sẽ ngon vô cùng vì cơn đói, nhưng vừa bỏ bánh vào miệng, hai dòng nước mắt chảy dài trên mặt tôi, những miếng bánh vỡ như những mảnh vỡ của thủy tinh xé nát buồng ngực tôi.


Tôi đau đớn và nhục nhã…. 


Tráng là người bạn học chung ở Văn khoa, hắn là chuyên gia đạp xích lô. Tôi tìm tới hắn, nhờ bảo lãnh thuê một chiếc ở hẻm Trần Quang Diệu. Tôi chưa chạy xe xích lô lần nào, nhưng nghĩ Tráng chạy được thì tôi cũng sẽ chạy được. Nghĩ đơn giản ai dè trèo lên mới thấy không phải dễ ăn. Tập vài vòng thì cũng tạm chạy được. Tráng bảo tôi chạy về Trần Quốc Toản, chỗ chợ cá sẽ có mối. Đúng là vậy, một bà mập béo và đôi thùng đầy nhóc cá lóc thụê tôi chở về chợ Trương Minh Gỉang. Chỉ  chạy đến ngã sáu Lê Văn Duyệt là tôi đã đuối hơi. Chân bắt đầu nặng, 

thở hổn hển. Tôi ráng đạp, nghĩ rằng chỉ qua tới Yên Đỗ, quẹo, qua được cầu là xong. Sẽ có bữa ăn cho trưa nay. Nhưng tôi không qua nổi cầu. ba bánh xe như có ai ghì lại, không lên nổi dốc, dù tôi đã gồng hết đôi chân. Chiếc xe như muốn tuột xuống, tuột xuống. Tôi không nhảy được, hai chân cố giữ bàn đạp, cả người cố gồng lên. Nhưng chiếc xe vẫn từ từ tuột. Tôi không chịu nổi nữa, ngực tôi nặng như đeo chì, hơi thở đứt quãng. Phen này thì chắc chết. Bà khách thấy xe tuột dần thì la lên chói lói, nhảy xuống cũng không xong vì kẹt hai thùng cá. Tôi buông xuôi, nhắm mắt chờ xe lật ngửa và thế là xong một đời. Nhưng, hình như có một sức mạnh thần kỳ, chiếc xe sựng lại một lát và đi lên như có ai đẩy. Tôi mở mắt nhìn lui thì thấy Nhân đang gò lưng đẩy xe từ phía sau, chiếc xe lên dốc rồi đổ dốc, an toàn đến chợ. Tôi gặp lại Nhân như thế đó, và Nhân đã cứu tôi lần nữa như đã cứu tôi một lần lúc thằng Hồ Lê bắt tôi rúc háng thuở còn đi học….  




Ngồi ở quán bún ngay góc Trương Minh Giảng và Trần Quang Diệu, tôi ăn ngon lành hai tô bún thịt nướng đầy rau xanh. Nhân không nói gì, ngồi nhìn tôi với đôi mắt ngập nước mắt thương xót. Nhưng khi tôi định gọi thêm tô thứ ba thì Nhân ngăn lại: 

- Cậu đã không chết vì đói thì đừng nên để chết vì no. Cứ từ từ. Sẽ  không phải đói nữa đâu.


Nhân rút từ túi ra một cọc tiền lớn, trả tiền bún xong, Nhân ngắt đôi cọc tiền, đưa tôi một phần và bảo: 

- Cậu giữ số tiền này mà sống. Người ta đang chuẩn bị cho các trường đại học hoạt động trở lại rồi. Cậu nên tiếp tục học hi vọng kiếm được một việc làm trong chế độ mới. Cậu ốm yếu lại quá thật thà đến hóa ngu, không làm buôn bán lọc lừa, không làm phu xe, bốc vác được đâu! 



DanQuyen.com
    Phản Hồi Của Độc Giả Về Bài Viết
Họ và Tên
Địa chỉ
Email
Tiêu đề
Nội dung
Gửi cho bạn bè Phản hồi

Các bài viết mới:
    Nồng ấm Tết cổ truyền dân tộc Khmer Chôl Chnăm Thmây (10-04-2024)
    Du khách Hàn Quốc 'phải lòng' bãi biển cát mịn và làn nước trong xanh của Việt Nam (02-04-2024)
    Danh thắng địa chất độc nhất vô nhị: Bàn Than – Hòn Mang – Hòn Dứa (02-03-2024)
    Quảng Bình: Những con số 'biết nói' ở làng du lịch tốt nhất thế giới (18-02-2024)
    Báo Australia nêu '9 điều tuyệt vời nhất nên làm ở Việt Nam' (01-02-2024)
    Hơn 90.000 lượt du khách trong và ngoài nước đến Lễ hội Tết Việt (21-01-2024)
    Kinh nghiệm du lịch Bãi Sao Phú Quốc (08-01-2024)
    Hoa kiểng Sa Đéc mang lại hơn 6.000 tỉ đồng cho tỉnh Đồng Tháp (30-12-2023)
    Tàu Diamond Princess đưa khách du lịch trở lại Cố đô Huế (11-12-2023)
    Tà Xùa - Một trong những thiên đường săn mây đẹp nhất miền núi phía Bắc (11-12-2023)
    Chương trình quảng bá 'Miền Di sản Diệu kỳ' hứa hẹn thu hút du khách Malaysia (23-10-2023)
    Hải Dương giới thiệu nhiều sản phẩm OCOP, thủ công mỹ nghệ đặc sắc (28-09-2023)
    Phố đi bộ đậm chất châu Âu giữa lòng Hà Nội: Địa điểm check-in mới toanh cho giới trẻ (13-09-2023)
    Cặp bánh trung thu lớn nhất Việt Nam sẽ xuất hiện ở Festival Chí Linh – Hải Dương 2023 (11-09-2023)
    Thành phố nào của Việt Nam lọt top được yêu thích nhất châu Á năm 2023? (29-07-2023)
    3 điểm đến ở Việt Nam vào danh sách nơi tránh nóng lý tưởng ở châu Á (26-07-2023)
    Tạp chí Hàn Quốc nêu 5 lý do nên đến Nha Trang trong Hè này (24-07-2023)
    Câu chuyện ly kỳ của người đàn ông miền sơn cước tìm ra hang động lớn nhất thế giới (22-07-2023)
    Du khách reo hò khi bất ngờ gặp 'điềm may' cá nhám voi ở biển Kỳ Co - Eo Gió (20-07-2023)
    Người đàn ông 30 năm miệt mài xé quần jeans (20-07-2023)

Các bài viết cũ:
    ĐỖ DUY NGỌC hồi ký (phần 1) (26-04-2011)
    Xuôi về Cà Mau ăn món trứng mực (17-04-2011)
    Khoái khẩu dê núi cố đô (17-04-2011)
    Lòng thả xứ Quảng - ăn và nhớ (28-03-2011)
    Ốc cừ hấp gừng (27-03-2011)
    Dân dã nhái đồng (25-03-2011)
    Một thời rau lang (23-03-2011)
    Lên Tây Bắc thưởng thức cá trê kho thập cẩm (21-03-2011)
    Dân dã cá mờm (16-03-2011)
    Bánh đa làng Kế (15-03-2011)
    Cơm hấp nước dừa (14-03-2011)
    Những món "đặc sản" quê dân dã mà ngon (14-03-2011)
    Món ngon không thể bỏ qua khi tới Huế (12-03-2011)
    Nhớ kẹo lạc quê nhà (11-03-2011)
    Bánh canh bột lộn (09-03-2011)
    Rộn ràng mùa cá cơm (04-03-2011)
    Đặc sản ốc gạo quê tôi (01-03-2011)
    Nhớ bánh gai của mẹ (25-02-2011)
    Dung dị canh cá khoai (18-02-2011)
    Chùm ảnh: Chạng vạng Sài Gòn (21-01-2011)
 
"Hoàng Sa, Trường Sa là của Việt Nam".

Chuyển Tiếng Việt


    Truyện Ngắn
Xa Xóm Mũi


   Sự Kiện

Lời Di Chúc của Vua Trần Nhân Tôn





 

Copyright © 2010 DanQuyen.com - Cơ Quan Ngôn Luận Người Việt Hải Ngoại
Địa Chỉ Liên Lạc Thư Tín:
E-mail: danquyennews@aol.com
Lượt Truy Cập : 152818412.